LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
QUẬN TÂN BÌNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

CÔNG ĐOÀN GIÁO DỤC ----------------------------------------
---------------
Số: 70 /HD-CĐGD Tân Bình,
ngày 16 tháng 12 năm 2014
HƯỚNG DẪN
Tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập
Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 – 22/12/2014)
và 25 năm
Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989
– 22/12/2014)
Căn cứ Hướng dẫn số 337/HD-CĐGD ngày 10 tháng 12 năm 2014 của Ban
Thường vụ Công
đoàn Giáo dục thành
phố Hồ Chí Minh về việc hướng dẫn
tuyên
truyền kỷ niệm 70 năm Ngày lập lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 –
22/12/2014)
và 25 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 – 22/12/2014).
Ban Thường vụ Công đoàn Giáo dục quận Tân Bình hướng dẫn công tác tuyên truyền
đến Ban Chấp Hành Công đoàn cơ sở các trường Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ
sở, đơn vị trực thuộc với nội dung cụ thể như sau cụ thể như sau:
I- MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU:
1- Tuyên truyền sâu rộng để cán bộ, đoàn
viên Công đoàn, nhà giáo, người lao động nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc 70 năm qua và trọng trách lớn
lao của quân đội ta trong thời kỳ mới; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xác định đường lối cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và Quân đội
nhân
dân Việt
Nam; ghi
nhận và
đánh
giá
những thành tựu to lớn trong 25 năm thực hiện Ngày hội Quốc phòng toàn dân, xây
dựng nền quốc phòng toàn dân trong thời kỳ mới.
2- Củng cố niềm tin, khơi dậy niềm tự hào, phát huy trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị, của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đối với nhiệm vụ xây dựng nền
quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế
trận an ninh nhân dân vững chắc, xây dựng
quân đội nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
3- Các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm cần được triển khai bằng nhiều hình thức phong phú, có trọng tâm, trọng điểm,
hiệu quả, an toàn, tiết kiệm; thúc đẩy việc hoàn thành các nhiệm vụ kinh tế - văn hóa – xã hội, quốc phòng, an ninh năm 2014, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội Đảng các cấp và Đại hội XI của
Đảng; cổ vũ tinh thần vượt qua khó khăn, thách thực, tạo
phong trào thi đua yêu nước sôi nổi trong cán bộ, đoàn viên Công đoàn, nhà giáo, người lao động.
II- NỘI DUNG TUYÊN TRUYỀN:
1- Tuyên truyền theo tài liệu của Ban Tuyên giáo Thành ủy (đính kèm), nhấn
mạnh quá trình xây
dựng và trưởng
thành; truyền thống chiến
đấu
và chiến thắng
của
Quân đội nhân dân Việt Nam trong 70 năm qua, gắn với lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang của dân tộc, của Đảng cộng sản Việt Nam; khẳng định vai
trò của quân đội nhân dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng nền quốc phòng toàn dân; những bài học kinh nghiệm lớn về xây dựng quân đội nhân
dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc; thuận lợi, khó khăn và nhiệm vụ
xây dựng
quân đội nhân
dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, tinh
thần cảnh giác cách
mạng, sẵn sàng chiến đấu và ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần
phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.
2- Tuyên truyền những thành tựu to lớn trong 25 năm thực hiện Ngày hội Quốc phòng toàn dân của cán bộ, đoàn viên Công đoàn, nhà giáo, người lao động tại các
đơn vị giáo dục trong ngành; sự nổ lực của quân đội trong tham mưu và là vai trò
nòng cốt trong hoạt động quốc phòng của đất nước, xây dựng nền quốc phòng toàn
dân vững
mạnh, gắn với an ninh nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá nước ta của các thế lực thù địch, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn, thống
nhất lãnh thổ của Tổ quốc; những bài học kinh nghiệm và trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị, của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trong việc thực hiện Ngày hội Quốc phòng toàn dân.
3- Truyên truyền, phản ánh các hoạt
động kỷ niệm, các phong trào thi đua lập
thành tích chào mừng 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 25
năm Ngày hội
Quốc phòng toàn
dân của các cơ quan, đơn vị; chú ý tuyên truyền các
phong trào thi đua, hoạt động đền ơn đáp nghĩa, thăm hỏi, chăm sóc các gia đình
chính sách, người và gia đình có công,…
III- TỔ CHỨC, THỰC HIỆN:
1- Đối với Công đoàn Giáo dục Quận :
- Xây dựng kế hoạch, hướng dẫn công đoàn cơ sở triển khai các hoạt động kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt
Nam và 25 năm
Ngày hội Quốc phòng toàn dân với phương châm
“hiệu quả, thiết thực, tiết kiệm”.
- Giao Ban Tuyên giáo CĐGD Quận hướng dẫn tuyên truyền; theo dõi, đôn đốc thực hiện hoạt động tuyên truyền, cổ động trong các cơ sở giáo dục; chuẩn bị
tài liệu tuyên truyền cung cấp cho công đoàn cơ sở.
2- Đối với Công đoàn cơ sở và trực thuộc:
- Căn cứ kế hoạch của Công đoàn Giáo dục Quận, tình hình thực tế của cơ quan,
đơn vị và điều kiện đặc thù của nhà giáo, người lao động, lựa chọn các loại hình và thời gian phù hợp để tổ chức các hoạt động chào mừng kỷ niệm 70 năm Ngày
thành lập Quân đội nhân dân Việt
Nam và 25 năm Ngày hội Quốc
phòng toàn dân
nhằm thu hút đông đảo
nhà giáo, người lao động tham
gia.
- Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao… nhằm tạo
không khí vui tươi,
phấn khởi trong công nhân, viên chức, lao động thiết thực chào mừng kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 25 năm Ngày
hội Quốc
phòng
toàn
dân
IV- MỘT SỐ
KHẨU HIỆU TUYÊN TRUYỀN:
1- Nhiệt liệt chào mừng Kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 – 22/12/2014) và 25 năm Ngày hội Quốc phòng toàn
dân (22/12/1989 – 22/12/2014).
2- Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
3- Ra sức củng cố, hoàn thiện thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân
dân, giữ vững hòa bình, ổn định và phát triển.
4- Tất cả vì sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
5- Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm.
6- Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm.
7- Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.
Trên đây là hướng dẫn
công tác tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt
Nam (22/12/1944 – 22/12/2014) và 25 năm Ngày hội Quốc
phòng toàn dân (22/12/1989 – 22/12/2014). Căn cứ kế hoạch, các
trường Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở và đơn vị trực thuộc trong ngành quán
triệt, triển khai thực hiện tốt tinh thần nội dung hướng dẫn này chủ động triển khai thực hiện để đợt hoạt động kỷ niệm đạt hiệu quả cao./.
Nơi nhận:
TM. BAN THƯỜNG VỤ
- CĐCS “để thực hiện”;
CHỦ TỊCH
- Thủ trưởng các đơn vị“để phối hợp”
- Lưu (Đã ký và đóng dấu)
Phạm
Thị Thu Huyền
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
(22/12/1944 – 22/12/2014)
VÀ 25 NĂM
NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN (19/12/1989 – 19/12/2014)
----------------
I. QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM - 70 NĂM XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN,
CHIẾN ĐẤU VÀ CHIẾN THẮNG
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội kiểu mới, quân đội của Nhân dân,
do Nhân dân, vì
Nhân dân, là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và
rèn luyện. Trải qua 70 năm xây dựng, phát triển, chiến đấu và chiến thắng, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự đùm bọc và nuôi dưỡng của Nhân
dân, sự
đoàn kết, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kế thừa và phát huy truyền thống quân sự của dân tộc, vừa chiến
đấu vừa
xây dựng, Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng phát
triển và trưởng thành.
1. Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời và cùng toàn dân tộc tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công
Trong Chính cương vắn tắt (tháng
2/1930),
Luận cương Chính
trị (tháng
10/1930), Đảng ta đã khẳng định con đường giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc
phải tổ chức ra quân đội công nông để giành
chính quyền và giữ chính quyền. Vì vậy, ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các tổ chức vũ trang lần lượt được hình thành là Đội tự vệ đỏ (xích đỏ) trong
phong trào cách mạng
1930-1931, mà đỉnh
cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Những năm 1940-1945, hàng loạt tổ chức vũ trang được
thành lập như: Đội du kích Bắc Sơn (Lạng Sơn), du kích Nam Kỳ, đội du kích Ba Tơ (Trung Kỳ), đội Du kích Pắc Bó (Cao Bằng), Cứu Quốc quân. Sự phát triển mạnh mẽ, rộng khắp và trưởng thành của phong trào đấu tranh cách mạng đòi hỏi cách mạng Việt Nam lúc này phải có một đội quân chủ lực thống nhất về mặt tổ chức để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc.
Đứng trước những yêu cầu thực tiễn của cách mạng, tháng 12 năm 1944, lãnh
tụ
Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội
Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 22
tháng 12 năm 1944, tại khu rừng giữa tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo
thuộc
châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (nay là xóm Nà
Sang, xã Tam Kim, huyện
Nguyên
Bình, tỉnh
Cao Bằng), Đội
Việt
Nam Tuyên truyền
Giải
phóng
quân được
thành lập gồm 34 chiến sĩ, biên chế thành 3 tiểu đội. Đồng chí Hoàng Sâm được cử
làm Đội trưởng. Đồng chí Xích Thắng (Dương Mạc Thạch) làm Chính trị viên. Đội
Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân có chi bộ Đảng lãnh đạo.
Thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh: “Trong một tháng phải có hoạt
động. Trận đầu nhất định phải thắng lợi”; 17 giờ ngày 25 tháng 12 năm 1944, Đội
Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã mưu trí, táo bạo, bất ngờ đột nhập vào đồn Phai Khắt (đóng tại tổng Kim Mã, châu Nguyên Bình, nay thuộc xã Tam Kim,
huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng); 7giờ, ngày 26 tháng 12 năm 1944 lại đột nhập đồn Nà Ngần (đóng tại xã Cẩm Lý, châu Nguyên Bình, nay thuộc xã Hoa Thám,
huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), giết chết hai tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ
binh lính địch và thu tất cả vũ khí, quân trang, quân dụng. Chiến thắng Phai Khắt, Nà
Ngần đã mở đầu cho truyền thống đánh chắc thắng, đánh thắng trận đầu của quân đội
ta.
Tháng 3 năm 1945, Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng và ra Chỉ
thị
“Nhật - Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4 năm 1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách
mạng Bắc Kỳ, quyết định thống nhất các lực
lượng vũ trang cả nước (Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu Quốc
quân và các tổ chức vũ trang khác...) thành Việt Nam
Giải phóng quân; đẩy mạnh
tuyên truyền xung
phong
có vũ trang phá kho thóc của
Nhật để cứu đói cho nhân dân;
xây dựng các đội tự vệ vũ trang, du kích cứu quốc; phát động chiến tranh du kích,
giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa cách mạng. Từ tháng 4 năm 1945, cao trào
kháng Nhật cứu
nước, phong trào vũ trang khởi nghĩa, khởi nghĩa từng phần đã giành thắng lợi ở nhiều nơi. Ngày 15 tháng 5 năm 1945, sau buổi lễ thống nhất tại Định Biên Thượng, Định Hóa, Thái Nguyên, Đồng chí Võ Nguyên Giáp được phân công
làm Tư lệnh các lực lượng vũ trang thống nhất, mang tên Việt Nam Giải phóng quân.
Trên cơ sở đánh giá thời cơ và tình hình cách mạng trong nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang cùng các tầng lớp Nhân dân đồng loạt đứng dậy tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8 năm
1945, cuộc Tổng khởi nghĩa của Nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam Giải phóng quân được
đổi tên thành Vệ Quốc quân; năm 1946, Vệ Quốc quân đổi tên thành Quân đội
Quốc gia Việt Nam; năm 1950, đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngày 22/12/1944, ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
- Đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được lấy làm Ngày
thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.
2. Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược (1945 - 1954)
a. Tham gia xây dựng,bảovệchínhquyềnnhândântrongnhữngnămđầucách mạng và tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 -1946)
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước
Việt Nam Dân
chủ
Cộng hòa đứng
trước một tình thế rất phức tạp và chồng chất khó khăn. Cùng một lúc chúng ta phải đối
phó với cả
“giặc đói”, “giặc
dốt”, “giặc
ngoại xâm”. Ở Nam Bộ, ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp được quân Anh và quân Nhật giúp sức đã trắng trợn gây
hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc
chiến tranh xâm lược
nước ta lần thứ hai. Tại Bắc Bộ và Trung Bộ, từ cuối tháng 8 đến
đầu tháng 10 năm 1945, gần 20 vạn quân Tưởng Giới
Thạch đã chiếm đóng hầu hết các thành phố từ vĩ tuyến 16 trở ra.
Vừa xây dựng, vừa chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, Vệ Quốc quân và lực
lượng tự vệ đã anh dũng trong đấu tranh vũ trang, vững vàng trong đấu tranh chính trị, thực hiện tốt nhiệm vụ chống giặc ngoài, thù trong, góp
phần bảo vệ vững chắc chính quyền nhân dân trong những năm đầu của chính quyền cách mạng.
b. Tham gia toàn quốc kháng chiến, cùng toàn dân đánh bại chiến lược “Đánh
nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp xâm lược (1946-1947)
Tháng 11 năm 1946, thực dân Pháp tăng thêm quân, đổ bộ lên Đà
Nẵng, Đồ Sơn, Cát
Bà. Để
thực hiện chiến
lược “Đánh nhanh thắng nhanh”, sau khi nổ súng
ở Hải Phòng và
Lạng Sơn, chúng ráo riết chuẩn bị lực lượng hòng đánh úp các cơ quan
đầu não của ta tại thủ đô Hà Nội, tiêu diệt bộ đội Vệ Quốc quân và Tự vệ tại các
thành phố lớn, đồng thời đánh chiếm những địa bàn chiến lược ở Trung Bộ và Bắc
Bộ.
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Với tinh thần “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, cuộc chiến đấu
ở Thủ đô Hà Nội và các thành phố,
thị xã
đã tiêu hao, tiêu diệt và giam chân một lực
lượng lớn
quân
địch, tạo điều kiện
cho cả nước chuyển vào kháng chiến lâu dài.
Ngày 07 tháng 10 năm 1947, thực dân Pháp huy động hơn 2 vạn quân tinh nhuệ có máy bay, tàu chiến hỗ trợ, mở cuộc tiến công lớn lên Việt Bắc, hòng tiêu diệt cơ quan
lãnh
đạo kháng
chiến và bộ đội chủ lực của ta bằng
chiến lược “Đánh nhanh, thắng nhanh”. Thế nhưng sau hơn hai tháng chiến đấu (7/10 đến 20/12/1947), quân ta
đã
liên tiếp phản công tiêu diệt hàng nghìn tên địch, bắn rơi 18 máy bay, bắn chìm, bắn cháy 50 tàu, ca nô, phá hủy 255 xe cơ giới, thu hàng nghìn súng các loại, làm nên thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc, phá sản chiến lược “Đánh nhanh, thắng nhanh” của
thực dân Pháp; bảo toàn và phát triển bộ đội chủ lực, bảo vệ cơ quan đầu não và căn cứ của cả nước, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp phát triển sang thời
kỳ mới.
c. Cùng toàn dân đánh bại âm mưu “Bình định” và “Phản công” của địch (1948
- 1952)
Sau chiến dịch Việt Bắc, để đánh bại âm mưu “Bình định” của
địch, ta chủ trương phát động chiến tranh du kích rộng khắp và thực hiện “đại đội độc lập, tiểu
đoàn
tập
trung”, vừa đẩy mạnh chiến tranh du kích, vừa học tập tác chiến, tập trung củng cố xây dựng lực lượng và từng bước tiến lên đánh những trận phục kích, tập kích lớn hơn, tạo tiền đề của chiến tranh chính quy sau này. Qua hơn hai năm chiến
đấu
(1948 - 1950), quân đội ta đã tiến bộ nhiều
về phương diện tác chiến và
xây dựng
lực lượng. Cuối năm 1949 đầu năm 1950, trước tình hình thế giới có nhiều chuyển biến tích cực, có lợi cho cuộc kháng chiến của quân và dân ta, Đảng ta đã đề ra nhiệm
vụ tích cực chuẩn bị lực lượng để chuyển sang tổng phản công.
Tháng 6 năm 1950, ta mở chiến dịch Biên Giới, tiêu diệt sinh lực
địch, giải phóng một phần biên giới Việt - Trung, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, khai thông đường liên lạc với các nước xã hội chủ nghĩa.
Vừa chiến
đấu, vừa xây
dựng lực lượng, quân đội ta không
ngừng phát triển
và ngày càng
lớn mạnh, nhiều đại
đoàn chủ lực được
thành lập, góp phần tăng thêm sức
chiến đấu của “các quả đấm chủ lực cách mạng” như: Đại đoàn 304, 308, 312, 316,
320, 325 và Đại đoàn công pháo.
Đầu tháng 11 năm 1951, Tổng Quân uỷ mở chiến dịch Hoà Bình, làm phá vỡ
phần lớn kết quả “Bình định” đồng bằng Bắc Bộ trong cả năm
1951 của địch.
Tại Trung Bộ và Nam Bộ, sau một thời gian củng cố, bộ đội ta đã đứng vững
trên các địa bàn, cùng
du kích chống càn quét và tiến công các căn cứ địch; góp phần
tiêu hao, tiêu diệt, kiềm chế một bộ phận quan trọng lực lượng quân sự của địch, bồi
dưỡng và phát triển lực lượng ta, mở rộng nhiều vùng căn cứ, đánh bại âm mưu
“Bình định” của địch.
Đầu tháng 9 năm 1952, Bộ Chính trị quyết định mở
chiến dịch Tây Bắc, nối thông được vùng giải phóng Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc và Thượng Lào. Ta giữ vững thế chủ động tiến công, làm thất bại âm
mưu mở rộng chiếm đóng của địch.
d. Cùng toàn dân giành thắng lợi trong cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân
1953 - 1954, đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ
Trước những thay đổi trong cục diện
chiến tranh ở Đông Dương và
trên cơ sở
đánh giá đúng tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch, tháng 9
năm
1953, ta mở
cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân
1953 - 1954. Với 5 đòn tiến công chiến lược, quân và dân ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, nắm quyền chủ động trên các chiến trường Đông Dương và làm phá sản âm mưu
tập trung lực lượng cơ động của Na-va, buộc chúng phải căng ra đối phó ở khắp nơi; kế hoạch Na-va bắt đầu bị phá sản.
Ngày 06 tháng 12 năm 1953, ta mở Chiến dịch Điện Biên Phủ; sau 56 ngày
đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, giáng đòn quyết định, tạo bước ngoặt lịch sử làm thay
đổi
hẳn cục diện chiến tranh giữa ta và địch; trực tiếp đưa đến việc ký kết
Hiệp định
Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt
Nam, lập lại hòa
bình ở Đông Dương, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; bảo vệ và phát triển thành
quả Cách
mạng Tháng
Tám; miền
Bắc
được giải phóng, tạo cơ sở và điều kiện vững chắc để quân và dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
3. Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước (1954 - 1975)
a. Quân đội nhân dân Việt Nam tiến lên chính quy, hiện đại; xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa; giữ gìn, phát triển lực lượng vũ trang cách mạng ở miền
Nam (1954 - 1960)
Để đáp ứng nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới mà Trung
ương Đảng xác
định đó là “Trụ cột bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình”, quân đội
ta nhanh chóng bước vào xây dựng theo kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ nhất (1955 -
1960). Nhiệm vụ và phương châm lúc này là: Tích cực xây dựng quân đội nhân dân
hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy, hiện đại. Đến năm 1960, quân đội ta đã hoàn thành các nhiệm vụ theo kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ nhất; có bước trưởng thành mới, từ lực lượng chủ yếu là bộ binh
với tổ chức chưa thật thống nhất, vũ khí trang
bị còn
thiếu thốn
đã trở thành
quân đội chính
quy, ngày
càng hiện đại, gồm các
quân chủng: Lục quân, Hải quân, Phòng không - Không quân. Đồng thời, với việc
xây dựng lực lượng, sắp xếp lại tổ chức,
biên chế, tăng cường sức mạnh chiến đấu,
quân đội ta đã
tích
cực
tham gia công
tác
tiếp
quản các thành phố, thị
xã và các vùng
do quân Pháp chiếm đóng ở miền Bắc; bảo
vệ
thành quả xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, tích cực tham gia lao động sản xuất, góp phần khôi phục kinh tế, hàn gắn
vết thương chiến tranh.
Ở miền Nam, tháng 6 năm 1954, Mỹ dựng chính phủ Ngô Đình Diệm và ráo riết thực hiện chính sách khủng bố tàn bạo, gây ra những tổn thất nặng nề cho cách
mạng miền Nam. Trước tình hình đó, tháng 01 năm 1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa II) mở rộng
đã xác
định
hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam và vạch rõ con đường cơ bản của cách mạng miền Nam là sử dụng bạo lực cách mạng.
Ngày 28 tháng 8 năm 1959, Nhân dân nhiều xã trong huyện Trà Bồng (Quảng
Ngãi) nổi dậy giành chính quyền. Ngày 17 tháng 01 năm 1960, Nhân
dân
các huyện
Mỏ
Cày, Minh Tân, Thạnh Phú tỉnh Bến Tre nhất loạt nổi dậy, phá thế kìm kẹp, tạo nên phong trào “Đồng khởi” lan rộng ra nhiều tỉnh ở Nam Bộ, Khu 5. Từ
phong trào
“Đồng khởi”, lực lượng vũ trang và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp của ta từng bước hình thành. Ngày 20 tháng 12 năm 1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam ra đời. Ngày 15 tháng 02 năm 1961, Quân ủy Trung ương quyết định
thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, bộ phận trực tiếp của Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện nhiệm vụ chiến đấu ở miền Nam.
b. Đẩy mạnh xây dựng quân đội chính quy, hiện đại, cùng toàn dân đánh bại
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ (1961 - 1965)
Trên hậu phương lớn miền Bắc, quân
đội
ta đã khẩn trương xây dựng theo kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai (1961 - 1965), nâng cao một bước quan trọng trình độ chính
quy, hiện đại. Nhiệm vụ
và
phương châm là: Xây dựng quân đội tiến
nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy, hiện đại. Với phương hướng xây dựng đúng
đắn, quyết tâm cao, tổ chức thực hiện tốt, quân đội ta đã nâng cao một bước rõ rệt sức
mạnh chiến đấu.
Đồng thời,
đã tạo ra những cơ sở thuận lợi cho việc mở rộng lực lượng, hoàn thành những nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu ngày càng lớn, khẩn trương và phức tạp trong những bước tiếp theo.
Từ năm 1961, để đối phó với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới và
phong trào cách mạng miền Nam, đế quốc Mỹ thực hiện “Chiến tranh đặc biệt”.
Chúng sử dụng quân đội Sài Gòn làm lực lượng chủ yếu; cung cấp vũ khí, phương
tiện kỹ thuật quân sự, tài chính và chỉ huy bằng hệ thống cố vấn quân sự và dân sự từ trung ương đến các tỉnh, đặc khu, các sư đoàn và tiểu đoàn; đồng
thời, thực hiện ba biện pháp chiến lược cơ bản: Tìm diệt bộ đội chủ lực và cơ sở cách mạng, bình định
để
nắm dân, phá hoại miền Bắc bằng biệt kích và phong tỏa
biên giới, vùng biển để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc.
Với kinh nghiệm đấu tranh, quân và dân miền
Nam đã sáng tạo nhiều hình thức tiến công, đánh 15.525 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 28.966 tên, vùng giải phóng được giữ vững
và
mở rộng; chiến
lược “Chiến tranh
đặc biệt” của Mỹ đứng trước nguy cơ bị phá sản.
Nhằm hạn chế những tổn
thất và cứu
nguy cho thất bại ở chiến trường
miền Nam, sau khi dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” (tháng
8 năm 1964), ngày 05 tháng 8 năm 1964, đế quốc Mỹ
mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và
hải quân lần thứ nhất hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương
miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam. Chúng
đánh ồ ạt các khu vực sông Gianh (Quảng Bình), Cửa
Hội
(thành phố Vinh), Lạch Trường (Thanh Hoá), Bãi Cháy (Quảng Ninh). Các đơn vị hải quân, phòng không, dân quân tự vệ đã nâng cao cảnh giác, hiệp đồng chặt chẽ,
mưu trí dũng cảm, chiến đấu ngoan cường, bắn rơi 8 máy bay, làm hư hỏng nhiều
chiếc khác, bắt sống nhiều giặc lái Mỹ. Ngày 05 tháng 8 trở thành Ngày truyền thống
đánh thắng trận đầu của Hải quân nhân dân Việt Nam.
Tháng 10 năm
1964, các lực lượng vũ trang miền Nam mở đợt hoạt động Đông
- Xuân 1964 - 1965, tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ lực ngụy, mở rộng
vùng giải phóng. Sau chiến thắng Bình Giã (02/12/1964 - 03/01/1965), Ba Gia (tháng
5 năm 1965), Đồng Xoài (10/5 - 22/7/1965), chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của
Mỹ hoàn toàn bị phá sản, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta bước sang một giai đoạn mới.
c. Cùng toàn dân đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá
hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965 - 1968)
Trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, từ
giữa năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa lực lượng chiến đấu của Mỹ vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam. Hỗ trợ
cho nỗ lực quân sự ở miền Nam, Mỹ
dùng không quân, hải quân mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Vừa xây dựng, vừa chiến
đấu
và phát
triển lực lượng, bộ đội ta trên các chiến
trường miền Nam đã tổ chức các trận tiến công, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân quy mô
lớn của Mỹ - quân đội Sài Gòn,
mở ra phong trào “Tìm Mỹ mà diệt”, “nắm thắt lưng
Mỹ mà đánh”, đánh bại kế hoạch hai gọng kìm “Tìm diệt” và “Bình định” của địch, tạo điều kiện đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước phát triển lên một bước mới, làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ.
Ở miền Bắc, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu, đánh trả không quân, hải quân địch, giành những thắng lợi lớn. Trong 4 năm (1964 - 1968), quân và dân miền
Bắc đã bắn rơi 3.243 máy bay các loại, bắt sống nhiều giặc lái, bắn chìm và bắn cháy
143 tàu chiến.
Giữa lúc cuộc chiến tranh leo thang của đế quốc Mỹ đến đỉnh cao nhất, Hội
nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân Mậu Thân (1968) nhằm tạo
bước ngoặt lớn, chuyển chiến
tranh cách
mạng miền Nam sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng
lợi quyết định. Chỉ trong
một
thời gian ngắn, quân và dân ta đã giành chiến thắng. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân trên toàn chiến trường miền Nam, cùng với việc
đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, làm phá sản
chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị
Pari.
d. Cùng toàn dân đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và cuộc tập
kích bằng không quân, hải quân lần thứ hai vào miền Bắc của đế quốc Mỹ (1969 -
1972)
Thất bại trên chiến trường miền Nam, từ
năm 1969, Mỹ chuyển sang thi hành “Học thuyết Ních-xơn” và chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh”, đồng thời tăng
cường chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường”
ở Lào và Cam-pu-chia. Quân
và dân ta đã
phối hợp chặt chẽ với nhân dân
Lào
và Cam-pu-chia
chiến đấu, giành được
những thắng lợi to lớn trên chiến trường ba nước Đông Dương trong Xuân - Hè 1971,
tạo ra
sự
thay đổi quan
trọng
trong cục diện chiến tranh. Chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh” của Mỹ bị thất bại một bước nghiêm trọng.
Đầu năm 1972, quân và dân ta mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền
Nam, làm thay đổi so sánh lực lượng và thay đổi cục diện chiến tranh, dồn Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn vào thế yếu trầm trọng hơn.
Trước nguy cơ đổ vỡ của quân
đội Sài Gòn - xương sống của Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”; Ních-xơn buộc phải huy động trở lại lực lượng quân sự Mỹ vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ngày 06 tháng 4 năm 1972, Mỹ huy động
một lực lượng lớn không quân và hải quân mở cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc
lần thứ hai, với hai chiến dịch Lai-nơ Bếch-cơ 1 (06/4/1972) và Lai-nơ Bếch-cơ 2 (đêm 18/12/1972).
Với tinh thần dũng cảm, bằng cách đánh mưu trí, linh hoạt, quân và
dân miền
Bắc đã đánh thắng cuộc tập kích chiến lược lần thứ hai bằng B52 của Mỹ, lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không” tại bầu trời Hà Nội.
Thắng lợi to lớn của quân và dân hai miền Bắc và Nam, buộc đế quốc Mỹ phải
ký Hiệp định
Pari về “Chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà
bình ở Việt Nam”
(27/01/1973), cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt dính líu về quân sự, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam.
e. Cùng toàn dân tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm
1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước (1973 - 1975)
Hiệp định Pari được ký kết, nhưng với bản chất ngoan cố, đế quốc Mỹ chưa chịu từ bỏ âm mưu duy trì chế độ thực dân mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Trong
quá trình rút quân, Mỹ vẫn để lại nhiều sĩ quan mặc áo dân sự và giao lại cho quân
đội Sài Gòn toàn bộ cơ sở vật chất, vũ khí,
phương tiện chiến tranh. Dựa vào viện trợ
của Mỹ, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ra sức
củng
cố ngụy quân, ngụy quyền, liên tiếp mở các cuộc hành quân “Tràn ngập lãnh thổ”, lấn chiếm vùng giải phóng của ta.
Nắm được âm mưu của
địch, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10 năm 1974 và đầu
năm 1975 đã kịp thời đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và địch trong tình hình mới, chỉ rõ sự xuất hiện thời cơ lịch sử và
nêu quyết tâm chiến lược, giải phóng miền
Nam, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh thực dân mới của đế
quốc Mỹ bằng cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm
1975.
Ngày 04 tháng 3 năm 1975, bộ đội ta mở chiến dịch Tây Nguyên - mở đầu
cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975; ngày 10 và 11 tháng 3 năm
1975, quân ta tiến công, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột.
Tiếp đó, từ ngày 14 tháng
3 đến ngày 03 tháng 4 năm 1975, quân ta tiến công, giải
phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây Nguyên; ngày 05 tháng 3 năm 1975, quân ta mở chiến
dịch Trị - Thiên - Huế, giải phóng tỉnh Quảng Trị (19/3/1975); từ ngày 21 đến ngày
25 tháng 3 năm 1975, quân ta tiến công, giải phóng thành phố Huế và tỉnh Thừa
Thiên, tiêu diệt và làm tan dã toàn bộ quân địch trên chiến trường Trị -Thiên.
Từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 3 năm 1975, quân ta mở chiến dịch giải phóng
Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà và thị xã Hội An (29/3/1975), làm thay đổi hẳn cục diện
và so sánh thế trận lực lượng ngày càng có lợi cho ta. Ngày 01 tháng 4 năm 1975,
giải phóng Bình
Định, Phú Yên. Ngày 03 tháng 4 năm 1975, giải phóng Khánh Hoà nối liền vùng giải phóng từ Tây Nguyên, Trị Thiên và các tỉnh Trung Bộ.
Trên cơ sở những thắng lợi quyết định, ngày 14 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính
trị
quyết định mở Chiến
dịch
Hồ Chí Minh nhằm giải phóng Sài Gòn và toàn
miền
Nam. Thực hiện
tư
tưởng chỉ đạo:
“Thần
tốc,
táo bạo, bất
ngờ, chắc thắng”, ngày
26 tháng 4 năm 1975, quân ta bắt
đầu nổ súng tiến công đồng loạt vào các mục tiêu, phá
vỡ
tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch. Ngày 29 tháng 4 năm 1975, quân ta tiến công tiêu diệt và làm tan rã các sư đoàn chủ lực số 5, 7, 18, 22 và 25 của quân đội Sài Gòn. Các binh đoàn tiến vào cách trung tâm thành phố Sài Gòn từ 10 đến 20 km. Đại sứ Mỹ và các nhân viên quân sự, binh
lính cuối
cùng của Mỹ
lên
máy
bay trực thăng
rút khỏi Sài Gòn (sáng 30/4/1975). 5 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân
ta
mở đợt tiến công cuối cùng. Vào lúc 10 giờ 45 phút, phân đội xe tăng của Quân đoàn 2 tiến vào Dinh Độc Lập.
Quân ta bắt toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn, buộc Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Cờ Tổ quốc
tung bay trước tòa nhà chính của Dinh Độc Lập lúc
11
giờ 30 phút. Trong
2 ngày
30 tháng 4 và ngày 1 tháng
5 năm, bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Quân khu 8 và Quân khu 9 nắm thời cơ, phát động Nhân dân
nổi
dậy, tiêu diệt và làm tan rã hàng ngũ địch, giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng
bằng Nam Bộ, vùng biển và các đảo ở Tây Nam của Tổ quốc. Hơn một triệu lính quân đội Sài Gòn và cả bộ máy chính quyền địch bị đập tan, chế độ thực dân mới
được Mỹ
dốc
sức xây
dựng trong hơn 20 năm với 5 đời tổng thống
đã hoàn toàn sụp
đổ.
Chiến dịch
Hồ
Chí Minh đã toàn thắng, miền
Nam hoàn toàn giải phóng. Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch hiệp đồng quân,
binh chủng quy mô lớn nhất, giành thắng
lợi to lớn nhất, đánh
dấu bước trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân
Việt Nam cả về tổ chức lực lượng và trình độ chỉ huy tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng; là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần quyết định kết thúc
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
4. Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (1975 - 2014)
a. Khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống Nhân dân, đưa sự nghiệp
cách mạng tiến lên trong giai đoạn mới
Trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước, nhiệm vụ của quân đội được
Trung ương Đảng nêu rõ: “Ra sức bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa xã hội của Nhân dân ta, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng
biển, biên giới và hải
đảo của nước
Việt
Nam thống nhất”.
Đồng thời “tích cực tham gia sản xuất, góp
phần xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”. Để thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, Quân ủy
Trung ương và Bộ
Quốc phòng đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng
quân đội,
củng cố quốc phòng trong 5 năm
(1976 - 1981).
Thực hiện phương hướng, nhiệm vụ do Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc
phòng đề ra, trong những năm 1975 - 1977, quân đội ta thực hiện điều chỉnh một
bước về quân số, tổ chức biên chế; vừa đẩy mạnh huấn luyện, xây dựng chính quy
phù hợp với tình hình mới, vừa tham gia xây dựng đất nước. Các đơn vị quân đội đứng chân trên các vùng mới được giải phóng đã phối hợp với Ủy
ban quân quản các cấp, khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng cơ sở, xây dựng lực
lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương; tổ chức cải tạo binh lính cảnh sát
của bộ máy chính quyền cũ, trấn áp các phần tử và tổ chức phản động; truy quét tàn
quân địch và FULRO; tích cực tham gia cải tạo tư sản công thương nghiệp, địa chủ,
bài trừ các tệ nạn xã hội; thu hồi quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật quân sự của địch, xử
lý
chất độc hóa học, rà phá
bom mìn, góp
phần ổn định
đời sống nhân dân. Trong
xây dựng kinh tế, toàn quân
đã bố trí 256.000 cán bộ, chiến sĩ chuyển sang làm nhiệm vụ
xây
dựng kinh
tế lâu dài. Nêu cao chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, cán bộ, chiến sỹ
trong quân
đội
đã khắc phục khó khăn, gian khổ, tham gia xây dựng tuyến đường sắt
Bắc - Nam; khai hoang xây dựng các vùng kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp, phát
triển
các nông trường, lâm trường quốc doanh trên các vùng Tây Bắc, Đông
Bắc, Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ…; xây dựng các công trình thủy lợi; khai thác và chế biến
hải sản, xây dựng cơ bản, sản xuất vật liệu xây dựng và các mặt hàng
dân dụng.
b. Cùng toàn dân đánh thắng hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới
Tây Nam và biên giới phía Bắc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế ở Cam-pu-chia
Tháng 4 năm 1977, tập đoàn Pôn Pốt - Iêngxari phát động cuộc chiến tranh
xâm lược
vùng
biên giới Tây Nam. Mùa khô năm 1978, chúng
đã huy động 19 trong
tổng số 20 sư đoàn bộ binh
mở cuộc tiến công
trên toàn tuyến biên giới, gây
ra
nhiều cuộc thảm sát man
rợ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngày 23 tháng 12 năm 1978, quân
và dân ta trên toàn tuyến biên giới Tây Nam đã tiến hành mở cuộc phản
công chiến lược và đánh bại cuộc chiến tranh
xâm lược của tập đoàn phản động
Pôn
Pốt
- Iêngxari, đuổi chúng về bên kia biên giới.
Với sự giúp đỡ to lớn của Quân tình nguyện Việt Nam, ngày 07 tháng 01 năm
1979, các lực lượng vũ trang cách mạng và quân dân Cam-pu-chia đã đánh đổ chế độ
diệt chủng Pôn Pốt - Iêngxari, hồi sinh, tái thiết đất nước.
Ở biên giới phía Bắc, ngày 17 tháng 02 năm 1979, Trung
Quốc đã huy động 60
vạn quân tiến công trên toàn tuyến biên giới 6 tỉnh phía Bắc nước ta. Các lực lượng vũ trang địa phương, dân quân tự vệ đã phối hợp với một bộ phận bộ đội chủ lực cùng đồng bào các dân tộc vùng biên giới anh dũng chiến đấu, bảo vệ vững chắc từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, buộc Trung Quốc phải rút hết quân vào ngày 16
tháng 3 năm
1979.
c. Quân đội ta đẩy mạnh huấn luyện, xây dựng nền nếp chính quy, tham gia phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội
Trong những năm 1980 -
1986, quân đội ta đã đẩy mạnh công tác huấn luyện,
sẵn
sàng chiến đấu, xây dựng nền nếp chính quy. Công tác huấn luyện được tiến hành cơ bản, toàn diện; hoạt động công tác đảng, công tác chính trị từng bước được đổi mới cả về
nội dung, hình
thức, phương pháp tiến hành. Thực
hiện
Chỉ
thị của Ban Bí
thư Trung ương Đảng, từ năm 1979, quân đội ta đã triển khai thực hiện Cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu”. Cuộc vận động đã
góp phần tạo nên chất lượng
mới, sức chiến đấu mới của
các lực lượng vũ trang nhân dân.
Trên mặt trận kinh tế, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng về việc
“Tổ chức cho các đơn vị bộ
đội có điều kiện tiến hành sản xuất để tự cung ứng một
phần
nhu
cầu, huy động
năng lực các xí nghiệp quốc phòng và
sử
dụng hợp lý lực
lượng quân đội vào những hoạt động kinh tế thích hợp”, cùng với toàn dân, các đơn vị quân đội đã tích cực tham gia xây dựng kinh tế góp phần quan trọng hoàn thành
nhiều công trình trọng điểm.
d. Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc
Quân đội nhân dân Việt Nam đã có những đóng góp xứng đáng vào những thành tựu chung của đất nước trong gần 30 năm đổi mới, nhất là từ năm 2005 đến
nay. Đó là, quân đội đã nắm chắc và dự báo đúng tình hình liên quan đến quốc phòng
- an ninh; chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối,
chủ trương, chính sách, Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. Đã tham mưu với Đảng và Nhà nước đề ra đối sách phù hợp, xử lý linh hoạt,
đúng đắn các tình huống phức tạp, các vấn đề nhạy cảm về quốc phòng - an ninh,
trong quan hệ đối nội và đối ngoại, không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược, đồng thời không để cho các thế lực thù địch lợi dụng, chống phá; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn
lãnh thổ và
quan hệ
tốt
với
các nước láng giềng;
bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - văn
hóa - xã hội nhanh, bền vững.
Trong thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, quân đội đã thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, duy trì và thực hiện tốt công tác sẵn sàng chiến
đấu ở tất
cả các cấp; tỉnh táo, chủ động và kiên quyết đấu tranh phòng chống chiến
lược “Diễn biến hòa
bình”, bạo loạn lật đổ, kịp thời
phát hiện, ngăn chặn và làm thất
bại mọi âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và thành quả cách mạng của Nhân dân. Trong thực hiện nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, quân đội đã đạt được những thành tựu mới trên tất cả các
lĩnh vực. Trong công tác dân vận,
quân đội đã góp phần tích cực trong việc tuyên truyền, vận động
Nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia xây
dựng hệ thống chính
trị, tăng
cường quốc
phòng - an ninh, phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội; tích cực giúp dân xóa
đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới;
phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa,
tìm
kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Trong công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, quân đội đã
triển khai đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
5. Truyền thống chiến đấu và chiến thắng vẻ vang của Quân đội nhân dân
Việt Nam
Trải qua 70 năm chiến đấu, xây
dựng và trưởng thành, cùng với những chiến công mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc như những biểu tượng sáng ngời về một quân
đội
từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu, phục vụ, quân đội ta đã xây đắp nên những truyền thống cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”. Đó là:
Trung thành vô hạn với Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; quyết chiến, quyết thắng, biết
đánh và biết thắng; gắn bó máu thịt với Nhân dân, quân với dân một ý chí; đoàn kết nội bộ, cán bộ, chiến sĩ bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, thương yêu giúp đỡ nhau, trên dưới đồng lòng thống nhất ý chí
và hành động; kỷ luật tự giác, nghiêm minh; độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, cần
kiệm xây
dựng quân đội, xây dựng
đất
nước, tôn trọng và bảo vệ của công; lối sống
trong
sạch, lành mạnh, có văn hóa, trung
thực, khiêm tốn, giản dị, lạc quan; luôn luôn nêu cao tinh thần ham học, cầu
tiến bộ, nhạy cảm, tinh tế trong cuộc sống; đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung, chí nghĩa, chí tình.
6. Cùng với sự lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, lực lượng vũ trang Thành phố sớm ra đời, chiến đấu, trưởng thàn, đã lập nên những chiến công hào hùng
Trung ương Đảng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh rất quan
tâm lực lượng vũ
trang ở Nam Bộ. cuối năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cử phái viên quân sự vào Nam Bộ.
ngày 20 tháng 11 năm
1945, hội nghị thống nhất chỉ huy, thống nhất các lực lượng vũ
trang ở Nam Bộ lấy tên là
Giải
phóng
quân. Đây là hội nghị đánh dấu về
danh nghĩa
việc thống nhất lực lượng và chỉ huy các lực lượng vũ trang ở Nam Bộ.
Cuối năm 1947 và những tháng
đầu năm 1948 là thời kỳ
phát
triển mạnh nhất của lực lượng vũ trang ở Nam Bộ nói chung và Sài Gòn
– Chợ Lớn – Gia Định nói riêng
trong kháng
chiến chống thực dân Pháp cả về
số
lượng và hiệu suất hoạt động, quân ta đã chủ động tấn
công, tiêu diệt hàng trăm tên địch, thu nhiều vũ khí, quân
trang, nhu yếu phẩm… Nổi bật là trận Láng Le, quân ta tiêu diệt hơn 300 tên, thu
85 súng và nhiều chiến lợi phẩm khác, được đánh giá là trận chống càn kiểu mẫu cấp trung
đoàn ngay
trên địa bàn ven Sài Gòn lúc bấy
giờ. Năm 1949 là
đỉnh cao về phát triển lực lượng, đặc biệt là lực lượng tại chỗ và toàn bộ lực lượng vũ trang khu Sài
Gòn – Chợ Lớn – Gia Định, nổi bật là các hoạt động đánh phá hậu phương quân địch, chống càn bảo vệ căn cứ và giữ thế trnh chấp vùng du kích ven đô.
Với vị trí địa lý đặc biệt, thành phố Sài Gòn đã trở thành một đô thị hàng đầu
của đất nước, đồng thời là một thủ phủ của thực dân Pháp. Nhiệm vụ lịch sử của lực lượng vũ trang cách mạng Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định trong chiến tranh chống xâm lược là trực tiếp uy hiếp và tiến công sào huyệt địch, hỗ trợ phong trào đấu
tranh
của nhân dân
đô thị đồng thời tạo ra những đòn đánh hiểm, góp phần quan trọng cho thắng lợi của cuộc kháng chiến. Nhiệm vụ nặng nề, lực lượng vũ trang đã khởi đầu mọi mặt, xây dựng từ không đến có, từ rời rạc, phân tán đến thống nhất. Từ gậy tầm vông và ý chí “Độc lập hay là chết”
đối đầu một đội quân viễn chinh xâm lược nhà
nghề, từng ngày đối mặt với quân thù, lực lượng đó đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt nhất, là một trong những bộ phận chịu nhiều gian khổ, hy sinh nhất để lớn lên trở thành một phần của quân đội nhân dân, tương xứng và đã hoàn thành
nhiệm vụ chính trị mà lịch sử
đã giao phó.
Trong
cuộc kháng
chiến chống Mỹ
đầy hy
sinh thử thách, lực lượng vũ
trang
Nhân dân Thành phố đã kế thừa được nhiều kinh nghiệm quý báu, vừa chiến đấu vừa xây dựng, phát triển lực lượng lớn mạnh
không ngừng, chứng tỏ được khả năng và trình độ chiến đấu cao. Phát triển mạnh mẽ, sáng tạo nghệ thuật chiến tranh nhân dân, dựa hẳn vào sức mạnh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, lực lượng vũ
trang thành phố đã vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, ác liệt, phát huy được sức
mạnh tổng hợp, hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Ngoài thành tích xây dựng
và chiến đấu, lực lượng vũ trang Thành phố đã góp phần phát động và xây dựng
phong trào chiến tranh nhân
dân trên vành đai
xung
quanh Sài
Gòn: xây dựng
căn
cứ địa, xây dựng xã ấp chiến đấu, thiết lập hệ thống địa đạo, làng ngầm trong lòng đất,
sưu tầm vũ khí địch để tái tạo đánh lại địch… những phong trào này xuất
hiện trên khắp chiến trường nông thôn ven đô, ngoại thành rất sôi nổi và phong phú. Tinh thần
tự
giác tích cực của quần chúng
đã
tạo nên sức mạnh tổng hợp
của cuộc chiến tranh nhân dân, góp phần rất lớn vào việc bám trụ, giữ vững căn cứ, vùng giải phóng và phát triển thế trận tiến công địch thường xuyên, liên tục, giành thắng lợi, hỗ trợ đắc lực cho phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị và chống phá bình định ở nông thôn.
Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng (30 tháng 4 năm 1975), quân dân thành phố Hồ Chí Minh đã góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như làm nghĩa vụ quốc tế tại Cam-pu-chia. Mười năm phấn đấu chịu
nhiều đau khổ, hy sinh, lực lượng vũ trang và Nhân
dân
Thành phố đã hoàn thành
nhiệm vụ giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn
xã hội trên một địa bàn trọng điểm của chiến lược
“Diễn biến
hòa
bình - Bạo loạn
lật
đổ” của các thế lực
thù
địch, góp phần
bảo vệ vững chắc Tổ quốc và công cuộc
xây dựng xả hội chủ nghĩa;
thực hiện nghĩa vụ
quốc tế trên đất bạn
Cam-pu-chia, giúp bạn bảo vệ thành quả cách mạng và xây dựng lại đất nước sau thảm họa diệt chủng, qua đó góp phần vun đắp tình hữu nghị truyền thống giữa
nhân dân và
lực lượng vũ
trang
hai nước Việt
Nam - Cam-pu-chia.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trước những diễn biến phức tạp, đặc
biệt là sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đặt ra mục tiêu
cấp bách và lâu dài của Thành phố là: Xây dựng Thành phố vững về chính trị, giàu về
kinh tế, mạnh về quốc phòng, an ninh, sẵn sàng đập tan âm mưu “Diễn biến hòa bình
- Bạo loạn lật đổ” và thắng địch trong chiến tranh chống xâm lược, đồng thời tập
trung nhân tài vật lực phục vụ cho nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Hàng năm, Thành phố đều tiến hành tổ chức các đợt diễn tập xây dựng khu vực phòng thủ với việc quán triệt nhiệm vụ và tập huấn cho cán
bộ Đảng, chính quyền,
đoàn thể, ban ngành; xây dựng hệ thống văn kiện; thực hành cụ thể từ cấp thành phố đến quận, huyện, phường, xã.
Trong công tác động viên, lực lượng vũ trang Thành phố tự khẳng định khả
năng đảm bảo hoàn
thành nhiệm vụ động
viên
quân đội cả về số lượng, chất lượng và
thời gian, đảm bảo về tổ chức biên chế, huấn luyện và sẵn sàng chiến
đấu; tham gia hoạt động bảo vệ an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội.
Với quá trình xây dựng, chiến
đấu, trưởng thành, lực lượng vũ trang thành phố Hồ Chí Minh đã nêu cao tinh thần “Trung thành vô hạn, bám
trụ
kiên cường, đoàn kết
kỷ cương, năng động sáng tạo, quyết
chiến
quyết
thắng”, góp phần
tô
thắm truyền thống anh hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
II. HAI MƯƠI LĂM NĂM THỰC HIỆN NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN
DÂN (22/12/1989 - 22/12/2014)
Quốc phòng
Việt Nam là nền quốc phòng toàn dân, bao gồm tổng thể các hoạt động về chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự, văn hoá, khoa học… của Nhà nước và Nhân dân để tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, đồng bộ, trong đó sức mạnh quân
sự
là đặc trưng, lực lượng vũ trang là nòng cốt, nhằm giữ vững
hoà bình, ổn
định
đất nước, ngăn chặn các hoạt động phá hoại, gây chiến, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, đồng thời sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức và quy mô. Nền quốc phòng toàn dân là sự cụ thể hoá chính sách quốc phòng của Việt Nam, thể hiện ở cơ cấu tổ chức, hoạt động
của các ngành, các cấp và của toàn dân theo một ý
định, chiến
lược thống nhất, nhằm tạo ra sức mạnh hiện thực để bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng nền
quốc phòng toàn dân là xây dựng cả lực lượng và thế trận; xây dựng tiềm lực mọi
mặt, đặc biệt là tiềm lực chính trị - tinh thần; phát huy sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị cho sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc.
Ngày 17 tháng 10 năm 1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) đã ra Chỉ thị số 381-CT/TW quyết định lấy Ngày thành lập Quân
đội
nhân dân Việt
Nam (22 tháng 12) đồng thời là Ngày hội Quốc phòng toàn dân - Ngày hội của truyền thống
bảo vệ Tổ quốc, Ngày hội tôn vinh và nhân lên hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” -
một nét độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Ngày hội Quốc phòng toàn dân cũng là dịp để phát huy truyền
thống yêu nước, biểu
dương
sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc và quyết tâm
của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã
hội chủ nghĩa.
Qua 25 năm thực hiện Ngày hội Quốc phòng toàn dân, chúng ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng sau đây:
Một là, nâng
cao nhận thức, ý thức trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc của toàn xã hội và sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
Hai là, giữ vững độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm môi trường ổn định, hòa bình và an ninh cho sự
phát triển đất nước; làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới đất nước, nâng cao vị thế và uy tín
của Việt Nam
trên trường quốc tế.
Ba là, sức mạnh
bảo vệ Tổ quốc được tăng cường, tăng thêm khả năng ngăn chặn và loại trừ nguy cơ chiến tranh và khả
năng
đối phó thắng lợi các
tình
huống
chiến tranh và các tình huống xâm phạm an ninh quốc gia, nếu xảy ra.
Bốn là, hình thành thế chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế
trận an ninh nhân
dân
bảo vệ Tổ quốc
được triển khai rộng khắp, chặt chẽ và liên hoàn; “Thế trận lòng dân” được
củng cố vững chắc.
Năm là, lực lượng vũ trang mà nòng cốt
là Quân
đội nhân dân có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, phát huy được vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
III. PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG ANH HÙNG, ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG
NỀN
QUỐC
PHÒNG TOÀN DÂN,
XÂY
DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
CÁCH MẠNG, CHÍNH QUY, TINH NHUỆ, TỪNG BƯỚC HIỆN ĐẠI
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU, NHIỆM VỤ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Trong những năm tới, tình hình thế giới
và khu
vực bên cạnh
xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển thì tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Do vây, bên cạnh thời
cơ, thuận
lợi thì
cũng còn
nhiều khó khăn, thách
thức
đối với sự nghiệp
đổi
mới, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Là lực lượng nòng cốt trong xây dựng
nền quốc phòng toàn
dân, bảo vệ Tổ quốc, quân đội ta phải tỏ rõ
bản lĩnh chính trị vững vàng, ra sức phát huy nội lực, vượt
qua mọi khó khăn, thử thách, củng cố quốc
phòng; tiếp tục xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Cụ thể là:
1. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh
Để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trong giai đoạn mới cần
nhận thức đúng và thực hiện tốt những định hướng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới. Tập trung xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, thực hiện
nghiêm túc
Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp
bách về
xây
dựng Đảng hiện nay” gắn với
thực hiện hiệu quả Chỉ thị 03-CT/TW của
Bộ
Chính trị về “Tiếp tục
đẩy
mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí
Minh”;
thực hiện phương
châm đi sâu, đi sát cơ sở, nâng
cao đời sống
vật
chất, tinh thần của bộ đội và Nhân dân. Xây dựng “Thế trận lòng dân” của nền quốc phòng
toàn dân trong tình hình mới. Tăng cường tiềm lực chính trị, tư tưởng đáp ứng yêu
cầu xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện nước ta tập
trung mọi nguồn lực cho xây dựng và phát triển kinh tế
- văn hóa - xã hội.
2. Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ xây
dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo và quản lý nhằm vừa tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; vừa bảo đảm sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với quân đội và xây dựng
Quân đội nhân
dân Việt
Nam cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng hệ
thống cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy các cấp trong quân
đội
trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống. Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân. Xây dựng
đội
ngũ
cán bộ quân đội
có
bản lĩnh chính trị kiên
định vững
vàng, có đạo đức,
lối sống tốt, có năng lực trí tuệ và hoạt động thực tiễn, có quan hệ chặt chẽ với
Nhân dân. Tiếp tục đổi mới, bổ sung, hoàn thiện chế độ, chính sách quân đội và hậu phương quân đội.
Trải qua 70 năm chiến đấu, xây dựng, chiến thắng và trưởng thành, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, quân đội ta đã phấn đấu liên tục,
không ngừng giữ vững và phát huy bản chất cách mạng của “Bộ đội Cụ Hồ”.
Kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 25 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân là dịp để chúng ta ôn lại lịch sử vẻ vang của dân tộc
và những chiến công
oanh
liệt
của quân
và
dân ta; khơi
dậy niềm tự hào dân tộc, chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí tự lực, tự cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách; ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng
Quân đội nhân
dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, là lực lượng chính trị tin cậy, đội quân chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới của cách mạng, góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
BAN TUYÊN GIÁO THÀNH ỦY